Chủ nghĩa cải cách, chủ nghĩa sáp nhập và chủ nghĩa độc lập (1800 - 1898) Lịch_sử_Cuba

Vào đầu thế kỷ XIX, ba trào lưu chính trị lớn hình thành ở Cuba đó là: chủ nghĩa cải cách ,chủ nghĩa sáp nhậpchủ nghĩa độc lập. Ngoài ra, các hành động tự phát và biệt lập được thực hiện theo thời gian đã thêm vào một luồng chủ nghĩa bãi nô. Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của mười ba thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và những thành công của Cách mạng Pháp năm 1789 cũng như cuộc nổi dậy thành công của nô lệ da đen ở Haiti năm 1791 đã ảnh hưởng đến phong trào giải phóng Cuba thời kì đầu. Một trong những phong trào đầu tiên như vậy ở Cuba do Người da đen tự do Nicolás Morales đứng đầu, nhằm đạt được sự bình đẳng giữa "nngười da trắng lai da đen và người da trắng" và bãi bỏ thuế bán hàng và các gánh nặng tài chính khác. Âm mưu của Morales bị phát hiện vào năm 1795 ở Bayamo và những kẻ chủ mưu bị bỏ tù.

Các phong trào cải cách, tự trị và ly khai

Do những biến động chính trị gây ra bởi Chiến tranh bán đảo Iberia năm 1807-1814 và việc Fernando VII bị lật đổ khỏi ngai vàng Tây Ban Nha vào năm 1808, một cuộc nổi dậy ly khai phương Tây nổi lên giữa tầng lớp quý tộc Creole ở Cuba vào năm 1809 và 1810. Một trong những nhà lãnh đạo của nó là Joaquín Infante đã soạn thảo hiến pháp đầu tiên của Cuba, tuyên bố hòn đảo này là một quốc gia có chủ quyền, giả định chế độ cai trị của những người giàu có của đất nước, duy trì chế độ nô lệ miễn là cần thiết cho nông nghiệp, thiết lập sự phân chia giai cấp xã hội dựa trên màu da và tuyên bố Công giáo là tôn giáo chính thức. Âm mưu này cũng thất bại, các thủ lĩnh chính bị kết án tù và bị trục xuất về Tây Ban Nha.[38]Năm 1812, một âm mưu theo chủ nghĩa bãi nô hỗn hợp được tổ chức bởi José Antonio Aponte, một thợ mộc da đen tự do ở La Habana. Anh ta và những người khác đã bị xử tử.

Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1812 và luật được Cortes của Cádiz thông qua sau vào năm 1808, thiết lập một số chính sách thương mại và chính trị tự do được hoan nghênh ở Cuba nhưng cũng hạn chế số quyền tự do trước đây. Từ năm 1810 đến năm 1814, hòn đảo đã bầu sáu đại diện cho Cortes, ngoài việc thành lập Ủy ban cấp tỉnh do địa phương bầu ra.[39] Tuy nhiên, chế độ tự do và Hiến pháp sớm lụi tàn khi Fernando VII đã đàn áp chúng khi ông trở lại ngai vàng vào năm 1814. Do đó, vào cuối những năm 1810, một số người Cuba đã được truyền cảm hứng từ những thành công của Simón Bolívar ở Nam Mỹ, mặc dù thực tế là Hiến pháp Tây Ban Nha đã được khôi phục vào năm 1820. Nhiều hội kín nổi lên, đáng chú ý nhất là "Soles y Rayos de Bolívar" thành lập năm 1821 và do José Francisco Lemus lãnh đạo. Mục đích của hội này là thiết lập nền Cộng hòa Cubanacán tự do (tên tiếng Taíno cho trung tâm của hòn đảo[40]) và nó có các chi nhánh ở năm huyện trên đảo.

Năm 1823, các nhà lãnh đạo của xã hội bị bắt và bị kết án đi đày. Trong cùng năm đó, với sự giúp đỡ của Pháp và với sự chấp thuận của Liên minh Ngũ quốc, vua Ferdinand VII đã tìm cách bãi bỏ chế độ quân chủ lập hiến ở Tây Ban Nha một lần nữa và thiết lập lại chế độ quân chủ chuyên chế. Kết quả là, lực lượng dân quân quốc gia của Cuba được thành lập theo Hiến pháp và là một công cụ tiềm năng để kích động tự do đã bị giải thể, một ủy ban quân sự hành pháp thường trực theo lệnh của thống đốc được thành lập, các tờ báo bị đóng cửa, các đại diện được bầu của tỉnh bị loại bỏ và các quyền tự do bị đàn áp.

Sự đàn áp này và thành công của các phong trào giành độc lập ở các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha trên đất liền Bắc Mỹ đã dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Cuba. Một số âm mưu giành độc lập đã phát triển trong những năm 1820 và 1830 nhưng đều thất bại. Trong số này có "Expedición de los Trece" (Chuyến thám hiểm của 13 người) năm 1826, "Gran Legión del Aguila Negra" (Quân đoàn vĩ đại của Đại bàng đen) năm 1829, "Cadena Tam giác" (Chuỗi hình tam giác) và " Soles de la Libertad "(Mặt trời Tự do) năm 1837. Các nhân vật hàng đầu của quốc gia trong những năm này bao gồm Félix Varela (1788-1853) và nhà thơ cách mạng đầu tiên của Cuba, José María Heredia (1803-1839).[41]

Từ năm 1810 đến năm 1826, 20.000 người tị nạn theo chủ nghĩa bảo hoàng từ các cuộc Cách mạng Mỹ Latinh đã đến Cuba. Họ đến cùng với những người rời khỏi Florida khi Tây Ban Nha nhượng Florida cho Hoa Kỳ vào năm 1819. Những dòng người này đã củng cố tình cảm trung thành với Tây Ban Nha trên đảo.[42]

Các phong trào chống chế độ nô lệ và độc lập

Năm 1826, cuộc nổi dậy vũ trang giành độc lập đầu tiên diễn ra ở Puerto Príncipe (tỉnh Camagüey) do Francisco de Agüero và Andrés Manuel Sánchez lãnh đạo. Cả Agüero (người da trắng) và Sánchez, một mulatto (người lai giữa da đen và da trắng) đều bị hành quyết. Họ trở thành những người tử vì đạo đầu tiên của phong trào giành độc lập của Cuba.[43]

Những năm 1830 chứng kiến một làn sóng hoạt động từ phong trào cải cách mà lãnh đạo chính là José Antonio Saco, ông nổi bật với những lời chỉ trích về chế độ chuyên quyền Tây Ban Nha và việc buôn bán nô lệ. Tuy nhiên, sự gia tăng này không mang lại kết quả nào; Người dân Cuba vẫn bị tước quyền cử đại biểu vào nghị viện Tây Ban Nha và Madrid đã tăng cường đàn áp.

Tuy nhiên, Tây Ban Nha từ lâu đã phải chịu áp lực chấm dứt việc buôn bán nô lệ. Năm 1817, Fernando VII ký sắc lệnh[44] tuy nhiên Đế quốc Tây Ban Nha đã không tuân theo. Dưới áp lực ngoại giao của Anh, chính phủ Tây Ban Nha đã ký một hiệp ước năm 1835 cam kết cuối cùng sẽ xóa bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ.[cần dẫn nguồn] Trong bối cảnh đó, các cuộc nổi dậy của người da đen ở Cuba gia tăng và bị dập tắt bằng các vụ hành quyết hàng loạt. Một trong những âm mưu quan trọng nhất là Conspiración de La Escalera (Âm mưu bậc thang), bắt đầu vào tháng 3 năm 1843 và tiếp tục cho đến năm 1844. Âm mưu này lấy tên từ một phương pháp tra tấn, trong đó, người da đen bị trói vào một cái thang và bị đánh. cho đến khi họ thú tội hoặc chết. Âm mưu bậc thang liên quan đến những người da đen tự do và nô lệ cũng như các trí thức và người lao động da trắng. Ước tính có tới 300 người da đen và người lai chết vì bị tra tấn, 78 người bị hành quyết, hơn 600 người bị bỏ tù và hơn 400 người bị trục xuất khỏi hòn đảo.[45][46] (Xem các bình luận trong bản dịch mới của "Cecilia Valdés" của Villaverde.) Người bị xử tử bao gồm nhà thơ hàng đầu Gabriel de la Concepción Valdés (es) (1809-1844), ngày nay thường được gọi là "Plácido".[47] José Antonio Saco, một trong những nhà tư tưởng nổi bật nhất của Cuba đã bị trục xuất khỏi Cuba.[48]

Tướng Tây Ban Nha Arsenio Martínez Campos ở La Habana, Cuba thuộc địa, 1878

Sau cuộc nổi dậy trong Chiến tranh mười năm năm 1868–1878, chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ vào năm 1886, Cuba trở thành quốc gia thứ hai ở Tây Bán cầu xóa bỏ chế độ nô lệ, Brazil là quốc gia cuối cùng. Thay vì dùng người da đen, những người buôn bán nô lệ tìm kiếm những nguồn lao động rẻ mạt khác như người Trung Quốc và người da đỏ từ Yucatán. Một đặc điểm khác của dân số là số lượng thực dân gốc Tây Ban Nha được gọi là peninsulares (dân bán đảo) chủ yếu là nam giới trưởng thành; họ chiếm từ 10 đến 20% dân số từ giữa thế kỷ XIX cho đến Đại khủng hoảng những năm 1930.

Khả năng bị Hoa Kỳ thôn tính

Tình trạng bất ổn của người da đen và những nỗ lực của thành phố Tây Ban Nha nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ đã thúc đẩy nhiều người Creoles ủng hộ việc sáp nhập Cuba với Hoa Kỳ, nơi chế độ nô lệ vẫn còn hợp pháp. Những người Cuba khác ủng hộ ý tưởng do họ mong muốn phát triển kinh tế kiểu Mỹ và tự do dân chủ. Việc sáp nhập Cuba đã được các quan chức chính phủ Hoa Kỳ liên tục đề xuất. Năm 1805, Tổng thống Thomas Jefferson xem xét việc sáp nhập Cuba vì những lý do chiến lược, cử các mật vụ đến hòn đảo để đàm phán với Đô đốc Someruelos.

Vào tháng 4 năm 1823, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Quincy Adams đã thảo luận về các quy luật hấp dẫn chính trị, trong một lý thuyết thường được gọi là "lý thuyết trái chín". Adams đã viết, "Luật hấp dẫn chính trị cũng như vật chất; và nếu một quả táo bị chặt đứt khỏi cây thì nó không thể chọn mà phải bị rơi xuống đất. Cuba buộc phải tách ra khỏi mối liên hệ bất thường của mình với Tây Ban Nha và nó không có khả năng tự chống đỡ, chỉ có thể thu hút về phía Liên bang Bắc Mỹ mà theo cùng quy luật tự nhiên không thể loại bỏ cô ấy khỏi lòng mình".[49] Ông cũng cảnh báo rằng "việc chuyển giao Cuba cho Anh sẽ là một sự kiện không có lợi cho Liên bang này".[50] Adams bày tỏ lo ngại rằng một quốc gia bên ngoài Bắc Mỹ sẽ cố gắng chiếm Cuba khi nước này tách khỏi Tây Ban Nha. Ông viết, "Vấn đề về việc chúng ta có quyền và quyền lực ngăn chặn nó bằng vũ lực nếu cần đã tự đặt ra trước các hội đồng của chúng ta và chính quyền được kêu gọi, khi thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với quốc gia, ít nhất là để sử dụng tất cả các phương tiện và khả năng để bảo vệ và ngăn chặn điều này".[51]

Vào ngày 2 tháng 12 năm 1823, Tổng thống Hoa Kỳ James Monroe đã đề cập cụ thể về Cuba và các thuộc địa châu Âu khác trong tuyên bố của ông về Học thuyết Monroe. Cuba nằm cách Key West, Florida 94 dặm (151 km), được những người sáng lập học thuyết quan tâm vì họ cảnh báo các lực lượng châu Âu đã từ bỏ "nước Mỹ cho người Mỹ".[52]

Những nỗ lực nổi bật nhất trong việc hỗ trợ thôn tính đã được thực hiện bởi giặc cướp người Venezuela, tướng Narciso López, người đã chuẩn bị bốn chuyến viễn chinh đến Cuba ở Mỹ. Hai lần đầu tiên vào năm 1848 và 1849, thất bại trước khi khởi hành do sự phản đối của Hoa Kỳ. Lực lượng thứ ba gồm khoảng 600 người đã đổ bộ vào Cuba và chiếm thành phố trung tâm Cárdenas nhưng cuối cùng thất bại do thiếu sự ủng hộ của dân chúng. Chuyến viễn chinh thứ tư của López đổ bộ vào tỉnh Pinar del Río với khoảng 400 người vào tháng 8 năm 1851; quân xâm lược bị quân Tây Ban Nha đánh bại và López bị xử tử.

Tiếp tục đấu tranh giành độc lập

Mô tả cuộc giao tranh giữa quân nổi dậy Cuba và phe Bảo hoàng Tây Ban Nha trong Chiến tranh mười năm (1868–78)

Trong những năm 1860, Cuba có thêm hai thống đốc có tư tưởng tự do là Serrano và Dulce, những người khuyến khích thành lập Đảng Cải cách dù thực tế là các đảng chính trị bị cấm. Nhưng họ đã bị giám sát bởi một thống đốc phản động là Francisco Lersundi, người đã đàn áp tất cả các quyền tự do được ban hành bởi các thống đốc trước đó và duy trì một chế độ ủng hộ nô lệ.[53] Ngày 10 tháng 10 năm 1868, chủ đất Carlos Manuel de Céspedes tuyên bố Cuba độc lập và trả tự do cho những người nô lệ của mình. Điều này bắt đầu Chiến tranh mười năm, kéo dài từ 1868 đến 1878. Chiến tranh phục hồi Dominica (1863–65) đã mang đến cho Cuba một khối lượng cựu binh thất nghiệp gồm những người da trắng và người lai da sáng người Dominica từng phục vụ trong Quân đội Tây Ban Nha tại Cộng hòa Dominica trước khi được sơ tán đến Cuba và giải ngũ.[54] Một số cựu binh này đã gia nhập Quân đội Cách mạng mới và được đào tạo và lãnh đạo ban đầu.[54][55]

Với sự tiếp viện và hướng dẫn từ người Dominica, quân nổi dậy Cuba đã đánh bại các đội quân Tây Ban Nha, cắt các tuyến đường sắt và giành quyền thống trị trên các vùng rộng lớn ở phía đông hòn đảo.[56] Chính phủ Tây Ban Nha đã sử dụng Quân đoàn tình nguyện để thực hiện các sứ mệnh ác liệt và đẫm máu chống lại quân nổi dậy Cuba và các hành động tàn bạo của Tây Ban Nha đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng nổi dậy ở miền đông Cuba; tuy nhiên, họ đã thất bại trong việc xuất khẩu cuộc cách mạng sang phương Tây. Vào ngày 11 tháng 5 năm 1873, Ignacio Agramonte bị giết bởi một viên đạn lạc; Céspedes bị tập kích và bị giết vào ngày 27 tháng 2 năm 1874. Năm 1875, Máximo Gómez bắt đầu cuộc xâm lược Las Villas ở phía tây của một giới tuyến quân sự kiên cố được gọi là trocha chia đôi hòn đảo.[57] Trocha được xây dựng từ năm 1869 đến năm 1872; người Tây Ban Nha dựng lên nó để ngăn Gómez di chuyển về phía tây từ tỉnh Oriente.[58] Nó là pháo đài lớn nhất do người Tây Ban Nha xây dựng ở châu Mỹ.[59]

Gómez đã gây tranh cãi trong lời kêu gọi đốt các đồn điền mía đường để quấy rối những người chiếm đóng Tây Ban Nha. Sau khi đô đốc người Mỹ Henry Reeve bị giết vào năm 1876, Gómez kết thúc chiến dịch của mình. Vào năm đó, khi Chiến tranh Carlos lần thứ ba kết thúc đã giải phóng binh lính Tây Ban Nha, chính phủ Tây Ban Nha đã triển khai hơn 250.000 quân đến Cuba để đàn áp cuộc nổi dậy. Vào ngày 10 tháng 2 năm 1878, Tướng Arsenio Martínez Campos đàm phán Hiệp ước Zanjón với quân nổi dậy Cuba và sự đầu hàng của tướng Antonio Maceo vào ngày 28 tháng 5 đã kết thúc chiến tranh. Tây Ban Nha chịu 200.000 thương vong chủ yếu là do bệnh tật; quân nổi dậy làm 100.000–150.000 người chết và hòn đảo bị thiệt hại tài sản hơn 300 triệu đô la.[54] Hiệp ước Zanjón đã hứa hẹn sẽ bồi thường cho tất cả nô lệ đã chiến đấu cho Tây Ban Nha trong chiến tranh và chế độ nô lệ đã được bãi bỏ vào năm 1880. Tuy nhiên, sự bất mãn với hiệp ước hòa bình đã dẫn đến Cuộc chiến nhỏ những năm 1879–80.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Cuba http://www.georgezarur.com.br/artigos/124/nation-a... http://www.ipen.org.br/webpages/noticiasS.htm http://www.redcross.ca/donate/your-donation-in-act... http://www.afrocubaweb.com/eugenegodfried/placidoe... http://www.aljazeera.com/news/americas/2012/07/201... http://www.answers.com/topic/grau-san-mart-n-ram-n http://edition.cnn.com/2008/WORLD/americas/02/19/c... http://crimemagazine.com/havana-conference-%E2%80%... http://www.cubasettlers.com/ http://www.damisela.com/literatura/pais/cuba/autor...